Hello, Ánh đây 😀 !!! Hôm nay chúng ta bắt đầu với một chủ đề các doanh nghiệp Việt Nam nên xuất khẩu theo điều kiện FOB hay CIF ? Woa…Nghe thú vị đúng không nào. Bài viết này sẽ hơi dài nên bạn chuẩn bị sẵn 1 tách cafe nhé…. Một trong nhiều câu hỏi được quan tâm đặt ra hiện nay tại nước ta là: tại sao đa phần các doanh nghiệp nước ta cứ xuất khẩu theo điều kiện FOB và nhập CIF, mà không ưu tiên xuất khẩu giá CIF và ngược lại, nhập khẩu FOB? Liệu con đường xuất nhập khẩu như vậy có đang làm bào mòn đi các giá trị gia tăng trong quá trình bán hàng của các doanh nghiệp?
Đọc xong nhớ kéo lên đọc bài này nhé: Nên loại bỏ điều kiện FOB và CIF trong vận chuyển Container? Tai sao không?
Incoterms và điều kiện CIF, FOB
Nhắc đến Incoterms , ắt hẳn ai ai quan tâm đến kinh tế đối ngoại ít nhiều điều đã từng nghe qua thuật ngữ này. Incoterms (International Commercial Terms) là tập hợp một bộ quy tắc ứng xử trong thương mại quốc tế. Từ khi được Phòng thương mại quốc tế xuất bản năm 1936, sau đó Incoterms được tái bản lần đầu tiên vào năm 2000, gọi là Incoterms 2000. Hiện phiên bản Incoterms mới nhất hiện nay thay cho Incoterms 2000 là Incoterms 2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Incoterms 2010 có thể coi là bộ quy tắc được chỉnh sửa, bổ sung căn cứ trên phiên bản 2000, dựa trên sự biến chuyển mang tính thời đại của dòng chảy thương mại quốc tế. Trong Incoterms 2010, các điều kiện thương mại được tinh giảm (Từ 13 xuống 11 điều kiện), hình thành 2 điều kiện mới là DAT và DAP, mang đặc điểm kế thừa và hợp nhất từ các điều kiện trước đó, cũng như góp phần giải quyết được các đòi hỏi mới mẽ của thời cuộc.
Incoterms có 4 nhóm điều kiện thương mại: E, F, C, D. Dĩ nhiên, CIF thuộc nhóm C và FOB thuộc nhóm F. Trên thực tế, CIF và FOB là 2 điều kiện thương mại được các nhà xuất nhập khẩu sử dụng thường xuyên. Tùy theo từng trường hợp mà các điều kiện nhóm C hay F trong cùng một nhóm có thể thay thế cho nhau. Ở điều kiện CIF hay các điều kiện nhóm C khác như: CFR, CPT, CIP, đây là điều kiện thuộc loại hợp đồng gửi hàng đi. Mua bán hàng hóa theo điều kiện FOB và nhóm F cũng tương tự. Chỉ có nghĩa vụ của người mua- người bán và địa điểm chuyển giao rủi ro có sự khác biệt.
Ở điều kiện FOB (Free On Board), người mua có quyền yêu cầu người bán giao hàng cho người chuyên chở do họ chỉ định và tại địa điểm đi. Đối với điều kiện FOB, địa điểm và thời điểm chuyển giao được xác định là sau khi hàng hóa được xếp xong trên tàu tại cảng xếp hàng (Cảng đi). Như vậy ở điều kiện này, do người bán phải giao hàng cho người chuyên chở do người mua chỉ định, tại cảng xếp hàng chỉ định, tức là người đứng ra thuê và trả chi phí cho phương tiện vận tải (Tàu chở hàng) lúc này chính là người mua, và người mua bảo hiểm cho hàng cũng chính là bên mua. Xuất khẩu theo điều kiện thương mại này là kiểu mậu dịch bắt người mua hàng phải tự thân vận động và gánh vác hầu hết các nghĩa vụ cũng như rủi ro khi nhập khẩu hàng hóa.
Ở điều kiện CIF (Carriage, Insurance and Freight) thì ngược lại, sau khi hoàn tất việc ký hợp đồng mua bán hàng hóa, người mua chỉ cần thực hiện thủ tục thông quan nhập khẩu, còn lại việc giao hàng đến địa điểm của người mua chỉ định và mua bảo hiểm cho hàng hóa là trách nhiệm của người bán. Việc ai là người sẽ chỉ định phương tiện vận tải thường sẽ tùy theo thỏa thuận của 2 bên. Đồng thời mọi công tác cũng như thủ tục trong quá trình vận chuyển, giao hàng sẽ do bên bán đảm trách. Miễn sao cuối cùng hàng hóa của họ cặp cảng nhập khẩu theo đúng lộ trình và thỏa thuận ghi trong hợp đồng. Công việc mua bảo hiểm cũng được bên bán chịu trách nhiệm chính. (Người bán chỉ mua bảo hiểm theo điều kiện tối thiểu) Dĩ nhiên là trách nhiệm với hợp đồng và hàng hóa vẫn là trách nhiệm chung của cả 2 bên, nên đòi hỏi bên mua cũng như bên bán sẽ có những kiến nghị, san sẽ và thỏa thuận riêng trong suốt quá trình mua bán.
Khi nào mua/bán giá FOB, và ngược lại đối với giá CIF
Như vậy, hợp đồng thương mại theo điều kiện FOB, người mua sẽ có trách nhiệm khá cao trong các thương vụ của mình. Còn theo điều kiện CIF, bên bán có trách nhiệm hoàn tất các quá trình cũng như thủ tục gắn với việc bán hàng đến tay người nhập khẩu. Đứng ở gốc độ của người mua hàng, giữa 2 điều kiện FOB và CIF thì những người mua hàng mà mức độ thỏa mãn của họ chỉ dừng lại ở việc mua được hàng, nguyên vật liệu với mức giá phải chăng, thì họ sẽ thích mua theo FOB. Cũng có khi người mua có chiến lược mua hàng tại Việt Nam và bán hàng của chúng ta dọc đường, nên họ sẽ dành quyền vận chuyển hàng và chịu trách nhiệm với hàng ngay sau khi hàng rời cảng xếp. Một số nhà nhập khẩu vốn sở hữu các hợp đồng vận tải theo đó mang lại nhiều lợi ích cho họ (Ví dụ như được chiết khấu cước tàu, hưởng hoa hồng từ chủ tàu), cho nên họ sẽ thích sử dụng FOB hơn.
Còn những người mua muốn nhà cung ứng của họ thỏa mãn nhu cầu mua được hàng của mình ở mức cao hơn, tức là muốn bản thân hưởng các đặc quyền tuyệt đối của người mua cũng như né tránh các rủi ro, rắc rối không mong muốn, họ sẽ thích CIF hơn. Nhìn chung, những người mua hàng theo điều kiện CIF đánh giá cao năng lực vận tải và ký hợp đồng bảo hiểm của người bán, họ cũng đồng thời chấp nhận mức giá cả cao hơn so với giá cả thông thường (Vì nó có cả chi phí vận tải và bảo hiểm hàng hóa). Trường hợp này trong thực tế sẽ xảy ra khi thị trường hàng hóa tại đất nước nhập khẩu đang có nhu cầu cao và đang đi lên, trong khi phát triển vận tải ngoại thương tại nước xuất khẩu còn ở cấp độ non yếu, để mua được hàng, nhà nhập khẩu sẵn sàng chủ động trong việc đưa ra hoặc chấp thuận các đề nghị thanh toán và vận chuyển thuận tiện cho hai bên.
Đứng ở gốc độ người bán hàng cũng vậy, làm hàng theo điều kiện FOB giúp người bán bán được hàng nhanh chóng, kết thúc hợp đồng vận tải và chấp dứt trách nhiệm đối với hàng hóa ngay sau khi xếp xong hàng lên tàu. Các công ty Việt Nam thường xuất khẩu nguyên nhiên liệu, sản phẩm thô, hàng linh kiện , lắp ráp, bán thành phẩm là chủ yếu, cho nên giá trị gia tăng thấp, nhu cầu xoay vòng vốn nhanh và mạnh, cộng thêm thiếu kinh nghiệm trong công tác làm hàng xuất khẩu nên thường để các nhà nhập khẩu hàng hóa dành quyền thuê phương tiện vận tải và chịu trách nhiệm cho các chi phí phát sinh hay rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hóa. Điều này có nghĩa là việc xuất khẩu hàng hóa theo điều kiện FOB tại Việt Nam không phải phổ biến chỉ vì các nhà xuất khẩu của chúng ta thích, mà là vì với “thế” và “lực” hiện tại, đôi khi họ không còn chọn lựa nào khác ngoài con đường xuất giá FOB.
Có một thực tế là các công ty nước ngoài xuất khẩu hàng hóa sang Việt Nam hiện nay chủ yếu theo điều kiện nhóm C, mà phổ biến nhất là CIF. Tức là chúng ta đang nhập giá CIF (giá tương đối cao) và xuất giá FOB (giá tương đối thấp). Như lúc nãy đã nói, chúng ta xuất khẩu hàng thô, bán thành phẩm nhưng đồng thời lại nhập khẩu hàng thành phẩm và bán thành phẩm công nghiệp có giá trị gia tăng cao, như dược phẩm, đồ hộp, linh kiện ô tô, máy tính, hàng điện máy, điện lạnh, …v.v. Các nhà xuất khẩu biết rõ cơ cấu thị trường hàng hóa nước ta và thường có lợi thế trong việc quyết định mức giá và điều kiện Incoterms phù hợp mà vẫn đảm bảo các quyền lợi hợp tác tối thiểu.
Nhìn chung, khi nhập khẩu hàng hóa theo điều kiện CIF, các nhà nhập khẩu nước ta thường sẽ chịu thiệt về giá một chút, nhà xuất khẩu sẽ có lợi thế áp đảo về giá trên bàn đàm phán, nhưng bù lại, giống như suy nghĩ chung của rất nhiều người hiện nay: Khi chúng ta không có điều kiện đích thân mang hàng về đến nơi an toàn, thì tại sao lại từ chối dịch vụ này từ các công ty xuất khẩu giàu kinh nghiệm? Liệu đây có phải là lựa chọn sáng suốt, khi mà chúng ta đang lựa chọn một phương thức mua hàng có thể khiến hàng chúng ta mua được không những đắt hơn mà còn ngày một lệ thuộc hơn vào người bán?
Nói thêm là, các nhà xuất khẩu chuyên nghiệp luôn có khả năng bán hàng với lợi thế cạnh tranh và giá trị gia tăng cao, nhờ vào: (1) Kinh nghiệm vận tải hàng hóa trong lĩnh vực xuất nhập khẩu; (2) Đội tàu được trang bị chu đáo, hiện đại, bao gồm cả nhân lực có chuyên môn nhất định trong cả lĩnh vực vận tải, bảo hiểm và quản lý; (3) Thành thục các công tác quản trị và ứng phó rủi ro, liên kết chặc chẽ với các cơ quan quản lý ngành và mạng lưới vận tải biển trong nước và khu vực. Với lợi thế này và việc bán hàng cho các nước bạn với các điều kiện Incoterms có lợi, hỏi sao nền kinh tế ngoại thương của họ không lớn mạnh, guồng máy phát triển kinh tế của họ không được gia tốc hiệu quả?
Tại Việt Nam, chỉ có một số ít công ty lớn, có tiềm lực tài chính lẫn nhân lực làm hàng xuất nhập khẩu mới đủ sức thực hiện việc mua bán hàng hóa như một nhà buôn chuyên nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp khó khăn về vốn và phát triển nhân lực cũng như cạnh tranh về sản phẩm.
Như vậy, không phải các nhà xuất khẩu Việt Nam không thể xuất khẩu theo giá CIF nói riêng hay các điều kiện Incoterms có lợi khác nói chung, mà là các điều kiện để chúng ta tiến hành còn chưa cho phép ngày càng có nhiều và nhiều hơn nữa các công ty dám mạnh dạng đàm phán và ký hợp đồng xuất khẩu theo hướng trên. Hơn nữa việc ký hợp đồng theo điều kiện Incoterms nào (CIF hay FOB) còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trên bàn đàm phán, như : Tình hình thị trường hàng hóa, tình hình giá cả, khả năng thuê phương tiện vận tải và ký hợp đồng bảo hiểm của bên mua hoặc bên bán, chính sách phát triển kinh tế ngoại thương của Nhà Nước,…
Xuất khẩu theo giá CIF và những lợi ích
Chúng ta không thể chối bỏ một sự thật là bán hàng theo giá CIF đem lại nguồn lợi lớn, bao gồm giá bán cao, chủ động trong việc luân chuyển, càng chủ động hơn trên bàn đàm phán, xây dựng được uy tín và quan hệ lâu bền với khách hàng,..
Về giá cả:
Liên quan trực tiếp đến lợi nhuận, khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Không nên hiểu bán hàng điều kiện CIF góp phần nâng giá bán lên mà là nâng giá trị gia tăng của hàng hóa lên.
Khi thuyết phục khách hàng ký hợp đồng mua-bán theo giá CIF, người bán có lợi thế trong việc thuyết phục người mua chấp nhận mua hàng tại vùng giá cao mong muốn. Ở giá FOB, vùng giá bán có thể dừng lại ở mức đạt lợi nhuận tối thiểu, nhưng khi ký hợp đồng theo giá CIF, ngoài việc tính thêm cước phí vận tải và bảo hiểm, một số chi phí khác, giá trị của hợp đồng có thể được xác lập ở những vùng giá cao hơn, tùy thuộc vào giá trị các dịch vụ mà người bán cung cấp, và chứng minh cho người mua. Vâng, thuê và ký hợp đồng vận tải, mua bảo hiểm ở điều kiện tối thiểu cho hàng, bảo quản hàng hóa trong quá trình vận chuyển, thủ tục xuất khẩu,…được xem như là những dịch vụ vô hình nằm ngoài giá trị thuần của sản phẩm nhưng lại đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình định giá sản phẩm.
Để thuyết phục nhà nhập khẩu về quan điểm và chính sách định giá bán, người bán cần chú ý các điểm sau: (1) Mức giá đưa ra phải có tính thuyết phục, rõ ràng; (2) Mức giá đưa ra không phải là mức giá duy nhất (cứng nhắc);(2) Mức giá đó phải nằm trong vùng giá an toàn và được xác lập dựa trên tình hình mua bán thực tế (thị trường). Như vậy, khi ký kết hợp đồng theo giá CIF, người bán hàng nên có lợi thế về kinh nghiệm luân chuyển, bảo quản hàng, quản trị và ứng phó rủi ro,..để dành được tín nhiệm của người mua trước, sau đó tiến hành thương thảo dành thế chủ động trong công tác vận tải, mua bảo hiểm.
Nếu bên bán không chứng tỏ cho người mua thấy thực lực của mình thì khó thuyết phục người mua mua giá CIF. Thực tế hiện nay là các đội tàu nước ngoài đang mạnh lên và có ưu thế cạnh tranh với các đội tàu nước ta về cả số lượng và chất lượng. Nhà nhập khẩu nước ngoài thừa sức mua hàng và tự vận cuyển hàng về nước họ. Việc ký hợp đồng theo giá CIF là một chuyện, nhưng việc có thuê được hợp đồng vận tải có lợi, có bị ép giá hay không lại là một chuyện. Có nhiều trường hợp xảy ra khiến cho các chi phí liên quan phát sinh trong quá trình làm hàng, ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận. Trước khi tiến hành đàm phán, các nhà đàm phán xuất khẩu thường liên hệ với các đại lý vận tải trước, sau đó trước khi ký hợp đồng lại xác nhận lại một lần nữa mức cước phí. Việc chọn đúng hãng tàu có uy tín, có trách nhiệm là một trong những khâu then chốt. Ngoài ra, nhà xuất khẩu cũng không lường trước việc các đại lý vận tải tăng giá cước liên tục (Tình trạng hiện nay), khiến chi phí xuất khẩu tăng cao, dẫn tới việc đội giá, làm giảm lợi thế cạnh tranh, tạo ra mức giá không thu hút lẫn thuyết phục người mua.
Cải thiện năng lực vận tải ngoại thương và quản trị xuất nhập khẩu:
Đối với xuất khẩu hàng hóa theo điều kiện CIF, cũng như các điều kiện DAP, DAT-đưa hàng đến điểm đến chỉ định, chuỗi cung ứng hàng hóa được hoàn thiện, người bán (cũng đôi khi là người trực tiếp sản xuất) tiến hành chào bán hàng hóa, tìm nhà nhập khẩu, thực hiện quá trình đàm phán và ký hợp đồng, sau đó là vận chuyển hàng hóa đến tay người mua tại cảng đến, chịu trách nhiệm trong suốt quá trình bán hàng,…Thực hiện quá trình bán hàng như vậy giúp các công ty xuất nhập khẩu nước ta nâng cao tay nghề cũng như khả năng quản trị xuất khẩu nói riêng, xuất nhập khẩu nói chung.
Chúng ta xuất đi được giá CIF, tất nhiên chúng ta cũng có thể nhập khẩu tốt giá FOB. Việc nhập khẩu giá FOB đòi hỏi người mua phải thực hiện các quá trình ký và thuê hợp đồng vận tải, mua bảo hiểm hàng hóa, quản trị rủi ro và các chi phí phát sinh giống như chúng ta làm hàng xuất khẩu giá CIF vậy. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế, đặc biệt là công nghiệp nhẹ Việt Nam, đặc trưng bởi quá trình nhập khẩu nguyên vật liệu bán thành phẩm từ nước ngoài (Các hợp đồng gia công), sau đó xuất khẩu các thành phẩm, sản phẩm phụ sang nước ngoài. Trong một chuyến hàng đi (xuất) và về (nhập), các công ty có thể tiết kiệm được một khoảng chi phí vận tải không nhỏ. Các công ty có thể tận dụng các chuyến tàu chở hàng về để tiếp tục nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ quá trình sản xuất hàng xuất khẩu hoặc ngược lại, khi có các hợp đồng mua và bán song song. Quá trình này làm cho chu kỳ sản xuất được vận hành liên tục và có lợi về mặt kinh phí. Do thiếu công nghiệp phụ trợ nên việc tự sản xuất các thiết bị, bán thành phẩm, cấu kiện máy móc, phụ tùng linh kiện…tại nước ta còn phải dựa vào nhập khẩu. Để tăng hiệu quả sử dụng vốn, trong quá trình xuất và nhập, các doanh nghiệp nhanh chân sẽ chủ động tạo ra dỏng chảy kinh doanh liên tục cho mình.
Vận tải đường biển – một trong các hình thức vận chuyển hàng hóa xuất/nhập chủ yếu tại nước ta, gặp nhiều khó khăn và thách thức. Trong đó, huy hoạch và đầu tư cho cơ sở hạ tầng chưa đúng cách là một lý do. Vì không có một cảng trung chuyển tầm cỡ khu vực với mặt bằng giao thông thuận lợi, hàng hóa Việt Nam xuất sang Tây Âu và Bắc Mỹ phải trung chuyển sang Singapore và Malaysia, khiến chi phí vận tải biển tăng thêm 20%.
Trong định hướng phát triển cảng biển VIệt Nam đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phát triển vận tải biển sẽ tập trung vào nâng cấp và đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải và đội tàu biển. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp làm hàng XNK nước ta tận dụng trong mua bán, cũng như cắt giảm chi phí không cần thiết trong vận chuyển hàng hóa.
Tăng dự trữ ngoại hối, nâng cao tiềm lực và uy tín của các công ty xuất nhập khẩu:
Việc cứ xuất khẩu theo giá FOB và mua hàng với giá CIF đồng nghĩa với việc một lượng ngoại tệ bị chảy ra khỏi nước ta hàng năm. Vì các nhà xuất khẩu phải giảm đi một lượng ngoại tệ có được để sang sẽ chi phí mang hàng về nước cho người mua, trong khi các nhà nhập khẩu chi thêm không ít ngoại tệ bù cho phần cước vận chuyển (và cả bảo hiểm) mà bên bán đảm nhận. Giả sử: Chúng ta có một bộ phận sản xuất thành phẩm, nhập khẩu lô hàng nguyên vật liệu với mức giá FOB, khi bán một đơn vị sản phẩm ra, chẳng hạn 200 USD, thì trị giá nguyên vật liệu (giá FOB nhập ) hết 150USD, trong đó gồm cả phí vận tải + bảo hiểm = 50USD. Lợi nhuận lúc này là 200 – 150 = 50USD. Nhưng nếu bạn tự tay nhập hàng theo giá CIF, phí vận tải + bảo hiểm có thể ít hơn 50USD. Ví dụ là 40USD. Mức chênh lệnh giữa nhập FOB và CIF là 10USD, cũng chính là chênh lệch lợi nhuận của bạn có được trên mỗi sản phẩm bán ra: 160USD so với 150USD. Khi bạn muốn xuất khẩu sản phẩm này đi theo giá CIF, mức giá mỗi đơn vị sản phẩm là trên 200USD.
Tất nhiên, không phải cứ xuất theo giá CIF thì sẽ thu về nhiều ngoại tệ hơn nhờ ưu thế giá bán và cắt giảm được những lổ hỏng cần thiết trong khi nhập nguyên liệu đầu vào. Muốn đạt được lợi nhuận cao, người bán hàng theo điều kiện CIF cần phải cân nhắc ưu và khuyết điểm của mình, bao gồm của cả sản phẩm và hệ thống doanh nghiệp; cân nhắc chi phí phải trả cho chủ tàu, chi phí lưu kho lưu bãi trong điều kiện thời tiết xấu, cùng các chi phí phát sinh trong và sau khi thiệt hại hay rủi ro xảy ra. Các cân nhắc này liên quan đến các quyết định đánh đổi trong đàm phán của nhà xuất khẩu, và các quyết định này làm phát sinh chi phí vô hình được kinh tế học gọi là “chi phí cơ hội”. Tức là chi phí để chọn giữa việc xuất CIF thay vì xuất FOB (Phương án A) có đáng để nhà xuất khẩu hy sinh giữa lựa chọn xuất FOB thay vì xuất CIF hay không (Phương án B)? Việc nhà xuất khẩu chọn phương án A sẽ tạo nên chi phí từ việc không chọn B, cho nên việc cân nhắc trước khi ra quyết định có nên nhất định phải xuất giá CIF hay không rất quan trọng. “Muốn leo cao, mông phải vững”.
Một điều không thể chối cải là bán hàng giá CIF là kiểu bán hàng trọn gói và đặt lợi ích của người tiêu dùng lên trên hết. Thêm một lý do nữa để mở rộng giá trị thặng dư cho nhà xuất khẩu đó là các chi phí hợp lý phục vụ cho việc bán hàng. Kể cả các lợi ích vô hình mà người mua nhận được khi mua hàng với giá CIF cũng là một điểm cộng.
Thực hiện bán hàng theo giá CIF khuyến khích đội ngũ quản làm hàng xuất khẩu làm quen với công tác quản trị chuỗi cung ứng, nâng cao năng lực đàm phán với các đối tác nước ngoài cũng như các đại lý vận tải, bảo hiểm. Năng lực bán hàng xuất khẩu cũng được nâng cao, góp phần tạo nên uy tín cho chính công ty của họ. Mạng lưới các mối quan hệ hợp tác cũng được nhân rộng. Cơ hội học tập kinh nghiệm từ các công ty xuất nhập khẩu trong và ngoài nước được mở rộng.
Kết Luận
Như vậy, xuất khẩu hàng hóa theo giá CIF hay các điều kiện Incoterms “đưa hàng đi” khác, như là con đường để các công ty XNK thực hiện kinh doanh XNK như là một nhà buôn chuyên nghiệp, góp phần phát triển dịch vụ vận tải biển và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, thúc đẩy thông thương, phát triển kinh tế
Tại các quốc gia có lợi thế về đường biển và kinh nghiệm trong lĩnh vực buôn bán đường biển như Trung Quốc, Singapore, Hà Lan,…Chính phủ đã sớm nhìn thấy một chân trời mới hiện ra nơi các cảng biển. Tại các quốc gia này, một lượng lớn vốn và khối óc được dùng để đầu tư vào huy hoạch và phát triển cảng biển, thúc đẩy thông thương, buôn bán quốc tế. Ngoại thương góp phần phát triển kinh tế, ngoại thương tạo ra các giá trị bằng việc tận dụng tốt các cơ hội mua bán với nước ngoài, ngoại thương là cách một quốc gia sử dụng lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh của mình để tạo ra giá trị, ngoại thương là cách mà một quốc gia hội nhập, sản xuất và thu về ngoại tệ.
Chúng ta phát triển kinh tế từ nhiều yếu tố mà kinh tế ngoại thương là một trong những lý do chính để nền kinh tế thị trường tiếp tục hoạt động.
Nói tổng quát, khi thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu, nhà kinh doanh xuất nhập khẩu phải chủ động đưa ra các công cụ và giải pháp trong bối cảnh cạnh tranh. Chủ động đưa ra các công cụ và giải pháp tức là thực hiện qúa trình tạo ra giá trị và lợi nhuận dựa trên sự thích ứng và thay đổi, dựa trên sự học hỏi của bản thân và sự phối hợp hiệu quả với các chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương và Nhà nước. Trước mắt, khi tiến hành ký hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài, các nhà xuất khẩu nên chủ động làm chủ quá trình quản trị chuỗi cung ứng, nâng cao giá trị gia tăng, giữ vững sức cạnh tranh. Cùng với quá trình huy hoạch và đầu tư, phát triển cảng biển của Nhà nước, cơ hội nâng cao tay nghề và phát triển trong thời gian sắp tới luôn chờ đợi các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai.
Làm kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như bao ngành nghề khác, nên đi theo quy luật marketing hiện đại “Bán cái khách hàng cần, đừng nên chỉ bán cái mà mình có”. Ưu tiên cho xuất khẩu giá CIF hay FOB điều phải đặt lợi ích khách hàng lên trên hết, hàng hóa làm trung tâm, chú trọng đến các hình thức dịch vụ đi kèm trong quá trình bán hàng, từ đó tìm ra các giải pháp góp phần tạo ra giá trị gia tăng hiệu quả, cắt giảm các chi phí không cần thiết.
Bài chia sẽ của mình về việc “Ưu tiên xuất khẩu theo giá CIF” hy vọng sẽ cung cấp cho mọi người cái nhìn tổng quát về xuất nhập khẩu hiện nay, một số ý kiến của mình về lợi ích của xuất hàng giá CIF và tác động to lớn khi các công ty XNK chủ động công tác quản trị bán hàng, vận tải hàng hóa chỉ là một số ý kiến cá nhân của bản thân, do vậy,rất mong nhận được sự góp ý và bổ sung chỉnh sửa từ quý bạn đọc.
trinh viết
Cho em hỏi câu này với ạ Các nước đang phát triển hạn chế về cơ sở hạ tâng, trình độ và kinh nghiệm trong giao nhận ( Logistic) nên trong thương mại quốc tế nên lựa chọn xuất theo gia FOB và nhận theo giá CIF. đúng hay sai ạ
Song Ánh Logs Support viết
Chào bạn,
Đâu thể nào lúc nào cũng xuất FOB và nhập CIF được bạn, khi làm hợp đồng mình phải xem xét xem tùy tình hình hàng hóa, giá cước tàu, phí bảo hiểm, nếu giá FOB thì thế nào, còn nếu CIF thì thế nào, cái nào lợi thì mình làm bạn nhé.
minhanh viết
Dear SongAnhlogs,
Em có thắc mắc là trong các quyển sách đề cập về các điều kiện của Incoterms, đề nghị khi xuất khẩu hàng đi theo cont nên dùng điều khoản CIP thay vì CIF.
Nhưng trên thực tế, theo những gì em tìm hiểu, các công ti xuất khẩu Việt Nam vẫn dùng điều khoản CIF chứ không đổi thành CIP.
Anh có thể giải thích cho em được không ạ?
Em cảm ơn
Song Ánh Logs Support viết
Chào bạn,
Đối với các điều kiện giao hàng trong incoterms, thì tùy từng loại hàng hóa khác nhau, tùy hoàn cảnh và điều kiện thực tế lúc đó và do thỏa thuận mà các bên đạt được trong hợp đồng thôi, chứ không đề nghị khi nào phải nhất thiết dùng điều kiện nào bạn nhé.
Hoàng Vương Hoa viết
Nếu là chủ thể nhập khẩu nên chọn nhập khẩu theo giá FOB hay CIF? Tại sao?
Song Ánh Logs Support viết
Chào bạn,
Tùy thỏa thuận mua bán 2 bên bạn nhé, FOB hay CIF còn phụ thuộc vào giá bán hàng hóa nữa, nếu mua FOB thì bao nhiêu, còn CIF thì bao nhiêu, thời điểm đó giá cước tàu có biến động hay không, đầu mua hay đầu bán book chỗ thì giá sẽ rẻ hơn, hàng hóa là gì có nguy hiểm khi vận chuyển nội địa hay không, chỉ cần mua bảo hiểm quốc tế là được hay phải mua thêm bảo hiểm nội địa mới yên tâm,……nhiều vấn đề cần xem xét nhé bạn. Cái nào lợi thì mình chọn.
Tuy nhiên nếu là mình, mình nghiêng về FOB hơn, do FOB hay CIF thì người bán cũng chỉ chịu trách nhiệm rủi ro hàng hóa khi giao hàng lên trên tàu mà thôi, CIF thì ng bán trả thêm cước và mua thêm bảo hiểm thôi. Cước và bảo hiểm mình tự mua được.
Hoàng Vương Hoa viết
Nếu là chủ thể xuất khẩu nên chọn xuất khẩu theo giá FOB hay CIF? Tại sao?
Hỗ Trợ 02 Song Ánh Logs viết
Chào bạn,
Mình chọn FOB vì shipper chỉ chịu trách nhiệm hàng tới lan can tàu bao gồm Thoòng quan vận chuyển thủ tục tại cảng.ko lo nhiều bằng CIf trách nhiệm cao.
Xuân Châu viết
Sự khác biệt giữa mệnh đề EXW và FCA INCOTERMS là gì zay các bạn
Song Ánh Logs Support viết
Chào bạn,
Mình chưa hiểu rõ bạn muốn hỏi gì, ý bạn muốn hỏi sự khác biệt về trách nhiệm bên mua, bên bán hay vấn đề gì vậy bạn ?
Hỗ Trợ 02 Song Ánh Logs viết
chào bạn,
EXW là giao hàng tại xưởng, người bán không làm thủ tục hải quan, không giao hàng đến người vận chuyển,
FCA là giao hàng cho người vận chuyển được chỉ định, người bán phải thông quan tờ khai.
(nếu người mua không thể làm thủ tục hải quan thì không nên chọn giá EXW).
Ung Ta viết
Bạn cho mình hỏi với. Khách hàng bên mình muốn mua hàng theo giá CFR thì rủi ro trong quá trình di chuyển trên biển là bên bán mình phải chịu à?
Cảm ơn bạn nhiều.
Song Ánh Logs Support viết
Chào bạn,
Điều kiện CFR thì rủi ro trong quá trình di chuyển trên biển là do người mua chịu nha bạn, người bán chỉ chịu trách nhiệm giao hàng lên tàu thôi.
Thao viết
A có thể trả lời giùm e câu hỏi này không?
In what case would export-import manager prefer to use Group C ( shipment ) terms?
Thanh Đào viết
Anh cho e hỏi. Công ty e xuất khẩu tinh bột sắn đi Trung Quốc. Đóng bao PP lót PE 50kg. Vậy bên em nên đi cont bao nhiêu? Có cần đóng khung gỗ hay không? đi theo giá FOB được không?
Song Ánh Trần (Mr.) viết
Cont 20 feet sẽ hợp lý nhé em
Loan Hoàng viết
Anh cho em hỏi: công ty em xuất hàng theo giá CIF. Khi thanh toán tiền hàng thì cty nhập khẩu lại thanh toán bằng tiền việt nam đồng chứ không thanh toán bằng tiền USD. Như vậy có ảnh hưởng gì cho cty em không. Em cám ơn!
Song Ánh Trần (Mr.) viết
Cái này trong hợp đồng ngoại thương phải ghi rõ chứ bạn. Mình nghĩ bên bạn và khách hàng đã tính đến rủi ro tỷ giá nên mới dùng VND. Hoặc cty nhập khẩu họ có chi nhánh tại VN. Theo Ánh thì đây là thỏa thuận. Giả sử bạn thỏa thuận thanh toán bằng USD, nếu USD lên giá bạn có lợi, còn USD mất giá so với VND thì bạn bất lợi. Cái nào cũng có 2 mặt mà bạn. Trong trường hợp này chắc là khách hàng bạn nghĩ rằng VND sẽ mất giá so với USD nên thanh toán bằng VND để có lợi cho họ ( thực tế thì lúc nào mà VND không mất giá 😀 )
Cẩm Tú viết
Kính gởi anh Ánh,
Cảm ơn anh về những bài viết rất sâu sắc và bổ ích.
Đặng Sơn viết
Cảm ơn Ánh về những bài viết hữu ích.
Quang Hoang viết
Rất cảm ơn anh vì những bài viết sâu sắc và bổ ích. Đọc những bài viết của anh đã giúp em mở mang kiến thức và suy nghĩ hơn rất nhiều.
Em có một đóng góp nhỏ này về việc sắp xếp phân loại các bài viết trong phần kiến thức.
Vì kiến thức Logistic – XNK là vô cùng rộng và đã dạng, nên khi muốn tìm đọc về một phạm vi nhất định thì tìm đọc sẽ mất rất nhiều thời gian (Phải bấm từng trang để tìm theo tiêu đề). Em hi vọng khi đăng bài viết mới lên anh có thể thêm phần phân loại bằng các tag (Hoặc cách nào khác tương tự) để những bạn như em, khi muốn tìm đọc về một chủ đề nhất định có thể dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm các bài viết.
Em rất mong Songanhlogs.com ngày càng lớn mạnh và đến với được nhiều người hơn nữa ạ.
Song Ánh Trần (Mr.) viết
Cảm ơn đóng góp ý kiến của bạn. Trong thời gian tới mình sẽ chỉnh sửa.
Phượng viết
Đọc các bài viết của anh rất sát,cảm thấy tâm huyết của ng viết
Cảm ơn anh và chúc anh sức khỏe ạ!
vũ thị nga viết
cảm ơn anh, bài viết của anh rất hữu ích.
Song Ánh Trần (Mr.) viết
Cảm ơn em. Chúc em ngày mới tốt lành